Tuyên phạt bị cáo Đinh La Thăng 13 năm tù, Trịnh Xuân Thanh chung thân

Thứ hai, 22/01/2018 15:31
(ĐCSVN) - Sáng 22/1, sau 5 ngày nghị án vụ án "Cố ý làm trái, tham ô tài sản" xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng Công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC), Hội đồng xét xử đã tuyên án. Bị cáo Đinh La Thăng bị tuyên phạt 13 năm tù, bị cáo Trịnh Xuân Thanh chung thân.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, các luật sư…, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định: Bị cáo Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch HĐQT PVN), Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch HĐQT PVC) cùng các bị cáo trong vụ án hầu hết là những người giữ vị trí chủ chốt trong những đơn vị kinh tế quan trọng, được Nhà nước, nhân dân tin tưởng giao quản lý vốn và thực hiện những dự án, công trình lớn của quốc gia, trong đó có Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2. Tuy nhiên, quá trình thực hiện dự án nêu trên, vì những động cơ khác nhau, các bị cáo lợi dụng vị trí đặc thù mà các bị cáo đã cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, làm chậm tiến độ, gây đội vốn hàng ngàn tỷ đồng ở dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, gây thiệt hại đặc biệt lớn về kinh tế cho Nhà nước, với số tiền trên 119,8 tỷ đồng.

Hội đồng giám định đã tuân thủ triệt để các quy định của luật giám định, theo đúng thành phần chuyên môn, thực hiện đúng quy trình, trật tự, thời gian, nội dung yêu cầu giám định, từ đó xác định thiệt hại hành vi làm trái của các bị cáo được làm tròn là 119 tỷ đồng.

Các bị cáo nghe HĐXX tuyên án. Ảnh: TTXVN.

Đối với bị cáo Đinh La Thăng đủ cơ sở khẳng định bị cáo là người đứng đầu nhưng vẫn cho PVC làm tổng thầu khi biết rõ PVC không đủ năng lực, kinh nghiệm để làm tổng thầu Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2. Hành vi của bị cáo vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế gây hậu quả nặng nề cho Nhà nước. Đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, hành vi vi phạm của bị cáo thoả mãn đầy đủ dấu hiệu tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

Đối với bị cáo Trịnh Xuân Thanh: Vai trò của bị cáo Thanh là quyết định trong việc chỉ đạo, điều hành PVC ký kết hợp đồng số EPC 33, ý kiến các luật sư cho rằng vai trò của Thanh là mờ nhạt, chỉ là thiếu trách nhiệm là không có cơ sở.

Đối với việc xin cấp tiền, ứng tiền và sử dụng tiền tạm ứng, bị cáo Trịnh Xuân Thanh thừa nhận đôn đốc tiền tạm ứng, điều này phù hợp với lời khai của các bị cáo khác tại phiên toà. Trịnh Xuân Thanh là người quản lý, luôn tham gia việc giao ban tuần, tháng của Ban giám đốc. Các chỉ đạo của Thanh tại các cuộc họp này luôn được Tổng Giám đốc tiếp thu và đưa ra kết luận của Ban điều hành.

Hành vi chỉ đạo sử dụng tiền sai mục đích của Trịnh Xuân Thanh là trái quy định tại khoản 6, Điều 17 Nghị định 48 của Chính phủ về hợp đồng xây dựng. Theo phân tích ở trên, đủ cơ sở khẳng định bị cáo Thanh biết PVC không đủ năng lực làm tổng thầu thực hiện Dự án nhiệt điện Thái Bình 2, cũng chưa đủ điều kiện để ký kết hợp đồng, song bị cáo vẫn chỉ đạo ký kết hợp đồng EPC số 33, chỉ đạo xin tạm ứng hợp đồng và sử dụng tiền tạm ứng sai mục đích, vi phạm Nghị định 48 của Chính phủ.

Hành vi của bị cáo thoả mãn các điều kiện của tội danh “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3, Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999. Điều đó cũng có ý nghĩa luận cứ tội của các luật sư không có căn cứ pháp luật, kết luận truy tố bị cáo theo khoản 3, điều 165 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có đủ căn cứ pháp lý.

Quá trình xét xử sơ thẩm, HĐXX đã có sự phân tích, đánh giá các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội, tính chất của hành vi, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

Việc Viện Kiểm sát truy tố bị cáo Trịnh Xuân Thanh và các đồng phạm về các tội danh nói trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

HĐXX tuyên phạt mức án đối với các bị cáo như sau:

1. Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN): 13 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

2. Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch HĐQT, TGĐ Tổng công ty Cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam PVC): 14 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tù chung thân về tội Tham ô tài sản. Tổng hợp hình phạt chung là tù chung thân. Phạt tiền 55 triệu đồng.

3. Phùng Đình Thực (nguyên TGĐ PVN): 9 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

4. Nguyễn Quốc Khánh (nguyên Phó TGĐ PVN): 9 năm tù tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

5. Nguyễn Xuân Sơn (nguyên Phó TGĐ PVN): 9 năm tù tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

6. Vũ Đức Thuận (nguyên TGĐ PVC): 7 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng; 15 năm tù về tội Tham ô tài sản. Tổng hợp hình phạt chung 22 năm tù. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Phạt tiền 30 triệu đồng

7. Ninh Văn Quỳnh (nguyên Kế toán trưởng kiêm Trưởng Ban Tài chính kế toán và Kiểm toán PVN): 7 năm tù tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

8. Lê Đình Mậu (nguyên Phó Trưởng ban Kế toán và Kiểm toán PVN): 4 năm 6 tháng tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

9. Vũ Hồng Chương (nguyên Trưởng Ban quản lý Dự án điện lực Dầu khí Thái Bình 2): 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

10. Trần Văn Nguyên (nguyên Kế toán trưởng Ban Quản lý Dự án Điện lực dầu khí Thái Bình 2): 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

11. Nguyễn Ngọc Quý (nguyên Phó Chủ tịch HĐQT PVC): 6 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

12. Nguyễn Mạnh Tiến (nguyên Phó TGĐ PVC): 6 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

13. Phạm Tiến Đạt (nguyên Kế toán trưởng PVC): 4 năm 6 tháng tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

14. Trương Quốc Dũng (nguyên phó TGĐ PVC): 17 tháng tù về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

15. Nguyễn Anh Minh (nguyên Phó TGĐ PVC): 16 năm tù về tội Tham ô tài sản. Phạt tiền 30 triệu đồng.

16. Bùi Mạnh Hiển (nguyên Chánh Văn phòng PVC): 10 năm tù về Tội tham ô tài sản. Phạt tiền 30 triệu đồng.

17. Lương Văn Hòa (nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc Tổng công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC): 10 năm tù về tội Tham ô tài sản. Cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế Nhà nước 3 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Phạt tiền 30 triệu đồng.

18. Nguyễn Thành Quỳnh (Giám đốc Kỹ thuật Công nghệ, Tổng Công ty CP Miền Trung - Công ty Cổ phần (Đà Nẵng): 8 năm tù về tội Tham ô tài sản. Phạt tiền 30 triệu đồng.

19. Lê Thị Anh Hoa (Giám đốc Công ty TNHH MTV Quỳnh Hoa): 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 5 năm về tội Tham ô tài sản.

20. Nguyễn Đức Hưng (nguyên Trưởng phòng Tài chính kế toán, Ban điều hành Vũng Áng - Quảng Trạch): 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo,  thử thách 5 năm về tội Tham ô tài sản. Phạt tiền 20 triệu đồng.

21. Lê Xuân Khánh (nguyên Trưởng phòng kinh tế Kế hoạch, Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch): 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 5 năm về tội Tham ô tài sản. Phạt tiền 20 triệu đồng.

22. Nguyễn Lý Hải (nguyên Trưởng phòng kỹ thuật, Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch): 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 5 năm về tội Tham ô tài sản.. Phạt tiền 20 triệu đồng./. 

 

 

Thu Hằng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực