Sẵn sàng triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới

Thứ tư, 09/01/2019 18:13
(ĐCSVN) - Chương trình giáo dục phổ thông mới đã sẵn sàng để triển khai. Tuy nhiên có 2 yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng đến thành bại của chương trình, đó là giáo viên và cơ sở vật chất trường lớp. Bên cạnh đó cũng cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương, các sở, ban ngành vì đây là sự nghiệp của toàn hệ thống chính trị.

Đó là khẳng định của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ tại Hội nghị trực tuyến 63 tỉnh, thành triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới do Bộ GD&ĐT tổ chức chiều ngày 9/1.

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh: Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới bao gồm Chương trình tổng thể và các chương trình môn học, hoạt động giáo dục. Chương trình được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12).

Giai đoạn giáo dục cơ bản nhằm trang bị cho học sinh tri thức, kỹ năng nền tảng; hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi; chuẩn bị tâm thế cho việc thích ứng với những thay đổi nhanh chóng và nhiều mặt của xã hội tương lai; đáp ứng yêu cầu phân luồng sau THCS theo các hướng: học lên THPT, học nghề hoặc tham gia cuộc sống lao động.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: VA.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đề nghị các Sở GD&ĐT và Phòng GD&ĐT tham mưu, đề xuất với UNBD cấp tỉnh/huyện xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới theo lộ trình quy định tại Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT từ năm học 2020-2021.

Tại Hội nghị, TS Hoàng Đức Minh, Cục trưởng Cục Nhà giáo và quản lý giáo dục (Bộ GD&ĐT) cho biết, đến tháng 10/2018, cả nước có 1.161.143 giáo viên mầm non, phổ thông (công lập 1.089.837, ngoài công lập 71.306). Trong đó, mầm non: 309.770 (công lập 262.155, ngoài công lập 47.615); tiểu học: 395.848 (công lập 390.873, ngoài công lập 4.975); THCS: 305.815 (công lập 300.990, ngoài công lập 4.825); THPT: 149.710 (công lập 135.819, ngoài công lập 13.891).

Tỉ lệ giáo viên (GV)/lớp toàn quốc như sau: Nhóm trẻ: 1,77 GV/nhóm trẻ (thấp hơn so với định mức quy định là 0,73 GV/nhóm trẻ), mẫu giáo: 1,68 GV/lớp (thấp hơn so với định mức quy định là 0,52 GV/lớp); tiểu học: 1,43 GV/lớp (so với định mức quy định giáo viên tiểu học còn thiếu chủ yếu ở các môn ngoại ngữ, tin học); THCS: 1,99 GV/lớp (so với định mức quy định, GV THCS về cơ bản đủ tuy nhiên vẫn thừa, thiếu cục bộ); THPT: 2,25 GV/lớp (so với định mức quy định GV THPT về cơ bản đủ).

Theo báo cáo của các Sở GD&ĐT, so với nhu cầu sử dụng theo định mức quy định, số GV còn thiếu sau khi đã được giao thêm biên chế để tuyển dụng là: 75.989 người (mầm non: 43.732 người; tiểu học: 18.953 người; THCS: 10.143 người; THPT: 3.161 người). Riêng cấp THCS, hiện nay có tình trạng thừa, thiếu cục bộ giữa các môn học ở một số cơ sở giáo dục, giữa các địa phương trong một tỉnh mà không điều tiết được và giữa các tỉnh/thành phố, nên đến thời điểm hiện tại toàn quốc thiếu 10.143 GV THCS một số môn nhưng vẫn thừa 12.165 GV THCS môn khác.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ đã chủ trì, phối hợp với Bộ GD&ĐT thống nhất chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành rà soát vấn đề biên chế, hợp đồng lao động đối với giáo viên trong các đơn vị sự nghiệp công lập ngành Giáo dục và đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định để giải quyết những khó khăn, bất cập của các địa phương nhằm bảo đảm không để xảy ra tình trạng có trường, lớp, học sinh mà không có giáo viên giảng dạy.

TS Hoàng Đức Minh chia sẻ thêm, thời gian tới, Bộ GD&ĐT sẽ ban hành các chương trình đào tạo, bồi dưỡng GV, cán bộ quản lý, trong đó có chương trình đào tạo GV dạy các môn học mới, chưa có trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và các môn học tích hợp. Đồng thời, đề nghị các sở/phòng GD&ĐT phải phối hợp với các cơ sở đào tạo để đề xuất nhu cầu đào tạo GV dạy các môn học mới theo chương trình đào tạo mới. Cơ sở đào tạo GV nghệ thuật thực hiện đào tạo GV âm nhạc, mỹ thuật để dạy môn học giáo dục nghệ thuật ở cấp THPT; đào tạo GV chuyên ngành tiếng Anh, tin học ở tiểu học; đào tạo GV theo từng chuyên ngành để bổ sung do tăng quy mô trường, lớp, học sinh và thay thế số GV nghỉ hưu (khoảng 2%/năm).

Liên quan đến cơ sở vật chất chuẩn bị cho chương trình giáo dục phổ thông mới, ông Phạm Hùng Anh, Cục trưởng Cục Cơ sở vật chất và Thiết bị trường học, đồ chơi trẻ em, Bộ GD&ĐT cho biết, cả nước có 567.012 phòng học, trong đó số phòng học kiên cố khoảng 424.757 phòng, tỉ lệ kiên cố 74,9%. Trong đó: mầm non 64,9%; tiểu học 72,2%; THCS 83,4%; THPT 93,9%. Tỉ lệ trung bình phòng học/lớp ở bậc mầm non là 0,96, tiểu học 0,89, THCS 0,84, THPT 0,85. Tỉ lệ trung bình phòng học kiên cố/lớp bậc mầm non 0,63; tiểu học 0,63; THCS 0,71; THPT 0,81.

Hội nghị trực tuyến tại điểm cầu Bộ GD&ĐT. Ảnh: VA.

Đối với phòng học bộ môn, cấp THCS có 47.383 phòng/10.582 trường, tỉ lệ 4,5 phòng/trường (trong đó số phòng đáp ứng quy định là 33,135 phòng, đạt tỉ lệ 69,9%); cấp THPT có 13.019 phòng/2.463 trường, tỉ lệ 5,3 phòng/trường, trong đó số phòng đáp ứng quy định là 9.968 phòng, đạt tỉ lệ 76,6%.

Khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, về phòng học, cấp tiểu học đảm bảo yêu cầu 1 lớp/phòng để học 2 buổi/ngày. Cấp THCS và cấp THPT bảo đảm yêu cầu tối thiểu 0,6 lớp/phòng để tổ chức học các môn tự chọn.

Để đảm bảo các yêu cầu này, ông Phạm Hùng Anh khẳng định Bộ GD&ĐT sẽ sửa đổi, bổ sung danh mục thiết bị dạy học theo lộ trình thực hiện chương trình mới trên nguyên tắc kế thừa những thiết bị đã có, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và các phần mềm thay thế thiết bị chứng minh, phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học công nghệ hiện nay.

Bộ GD&ĐT cũng giao các địa phương lập và phê duyệt kế hoạch thực hiện Đề án tổng thể và từng năm, trong đó xác định nhu cầu đầu tư giai đoạn 2017 - 2020 theo các mục tiêu. Cụ thể, đối với giáo dục mầm non, đầu tư xây dựng phòng học, phòng giáo dục thể chất, giáo dục nghệ thuật, nhà bếp và nhà kho; mua sắm bổ sung thiết bị dạy học tối thiểu và thiết bị đồ chơi ngoài trời.

Đối với giáo dục tiểu học: Đầu tư xây dựng phòng học (ưu tiên để bảo đảm 1 lớp/phòng), các phòng chức năng (giáo dục thể chất, giáo dục nghệ thuật, tin học, ngoại ngữ, thiết bị giáo dục, hỗ trợ giáo dục khuyết tật học hòa nhập) và thư viện; mua sắm bổ sung thiết bị dạy học tối thiểu khối lớp 1 và lớp 2 (theo lộ trình và hướng dẫn của Bộ GD-ĐT), bàn ghế hai chỗ ngồi, máy tính và thiết bị phòng học ngoại ngữ.

Đối với giáo dục THCS và THPT, đầu tư xây dựng phòng học bộ môn, phòng chuẩn bị và thư viện; mua sắm bổ sung thiết bị dạy học tối thiểu khối lớp 6, thiết bị phòng học bộ môn, bàn ghế hai chỗ ngồi, máy tính và thiết bị phòng học ngoại ngữ.

Kinh phí thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới giai đoạn 2017 - 2020 bao gồm trái phiếu Chính phủ, nguồn vốn hỗ trợ thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, ngân sách địa phương, nguồn xã hội hóa và các nguồn hợp pháp khác cùng nguồn vốn ngân sách Trung ương cho sự nghiệp giáo dục...

Nhấn mạnh về kinh phí lấy từ nguồn vốn hỗ trợ thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, ông Phạm Hùng Anh lưu ý đối với nguồn vốn đã phân bổ, trên cơ sở tổng số vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ, các địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể, ưu tiên bố trí vốn cho các công trình giáo dục để thực hiện các mục tiêu của Đề án. Đối với nguồn vốn dự phòng của Chương trình, các địa phương đề xuất danh mục đầu tư, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên đầu tư, trong đó, ưu tiên phòng học cho cấp tiểu học, phòng học bộ môn cho cấp THCS.

“Các địa phương cần xác định việc bảo đảm cơ sở vật chất trường học là trách nhiệm của địa phương, nguồn lực đầu tư do các địa phương chủ động cân đối, bố trí, huy động là chủ yếu”- ông Hùng Anh nhấn mạnh./.

Mỹ Anh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực